Duy trì tỷ lệ giới tính khi sinh theo tự nhiên, lợi ích của tránh thai và trách nhiệm của chúng ta
Hiện nay, dân số Việt Nam là khoảng 94 triệu người, dân số
trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số. Theo Tổng cục Thống kê cho biết,
số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49 tuổi) là trên 24,2 triệu người. Trung
bình mỗi năm dân số Việt Nam tăng thêm khoảng gần 1 triệu người. Trong khi đó,
tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai năm 2016 là 77,6%, trong đó tỷ lệ sử dụng
các biện pháp tránh thai hiện đại là 66,8%. Nhu cầu sử dụng các phương tiện
tránh thai tiếp tục tăng. Đặc biệt đối với vị thành niên, thanh niên cần được
quan tâm hơn.
Mức độ đáng báo động về quan hệ tình dục không được bảo vệ
cũng như kiến thức, hiểu biết về các biện pháp tránh thai còn thiếu hụt trong
giới trẻ đã dẫn đến tình trạng hàng năm có tới 1/3 trong số trên 205 triệu trường
hợp mang thai trên thế giới là mang thai ngoài ý muốn, 36% độ tuổi vị thành
niên cho biết có quan hệ tình dục không sử dụng biện pháp bảo vệ, trong khi tỷ
lệ bệnh lây truyền qua đường tình dục cao nhất ở độ tuổi dưới 25… Họ là những đối
tượng phải đương đầu với nhiều nguy cơ và thách thức liên quan đến sức khỏe
sinh sản, sức khỏe tình dục. Các chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản, giới
tính trong hệ thống nhà trường không đủ để cung cấp thông tin một cách toàn diện
về vấn đề này như: thiếu kiến thức, kỹ năng cần thiết để chăm sóc bản thân; tỷ
lệ phá thai, bao gồm cả phá thai ở vị thành niên, thanh niên còn cao; tình trạng
phá thai lặp lại còn khá phổ biến; tỷ lệ vô sinh, nhất là vô sinh thứ phát đang
có chiều hướng gia tăng, dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ còn một số hạn
chế…
Theo kinh nghiệm của quốc tế, nếu chi 1 USD cho KHHGĐ thì sẽ
tiết kiệm được 31 USD chi cho xã hội. Trong bài phát biểu bế mạc của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ sáu của Đảng đã nêu rõ: “Coi công tác
dân số và phát triển là nhiệm vụ của toàn dân; đầu tư cho công tác dân số là đầu
tư cho phát triển bền vững”. Từ đó ta thấy được lợi ích của việc thực hiện tốt
công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản đối với mọi người dân, trong đó có công
nhân lao động là:
Chủ động trong việc sinh con, lợi ích của việc phòng tránh
thai sẽ giúp phụ nữ chủ động trong việc sinh đẻ của mình như: chủ động trong thời
gian sinh đẻ của mình như: chủ động trong thời gian sinh đẻ, khoảng cách sinh
và số lượng con sinh ra, nhằm tạo ra thế hệ tương lai khỏe mạnh cả về thể chất
và trí tuệ.
Việc không sinh con sớm, quá dày, quá nhiều hay quá muộn, đặc
biệt khi người phụ nữ chưa phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn sinh lý sẽ hạn
chế được các tai biến cho bà mẹ và thai nhi. Đẻ quá muộn thì làm tăng tỉ lệ dị
tật thai. Đẻ quá nhiều và dày khiến cho phụ nữ hao mòn, dễ bị tai biến khi sinh
đẻ, thậm chí là chết lưu và suy dinh dưỡng cả mẹ và con…
Phòng tránh thai giúp nâng cao chất lượng cuộc sống gia
đình: Lợi ích của việc phòng tránh thai giúp mỗi gia đình có đủ 2 con, không
sinh quá nhiều. Từ đó, có điều kiện để chăm sóc, giáo dục con cái tốt hơn. Nâng
cao được đời sống, kinh tế của mỗi gia đình. Do có sức khỏe, văn hóa và kinh tế
tốt, chị em phụ nữ và các cặp vợ chồng có đủ điều kiện để thực hiện quyền hưởng
thụ và bồi dưỡng sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản.
Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian tới, việc thực hiện
các mục tiêu về KHHGĐ vẫn tiếp tục là một nội dung quan trọng của công tác dân
số. Cần tăng cường tuyên truyền, theo dõi sát diễn biến về mức sinh và sử dụng
biện pháp KHHGĐ để có kế hoạch và giải pháp cụ thể. Mục tiêu chính là đảm bảo
đáp ứng đầy đủ và đa dạng các phương tiện tránh thai, xã hội hóa dịch vụ và các
phương tiện tránh thai.