I-ốt là một nguyên tố hóa học có trong tự nhiên và là một
chất rất cần thiết cho cơ thể, mỗi ngày chúng ta chỉ cần tiếp thu vào một lượng
rất nhỏ nhưng phải đều đặn, y học gọi là nguyên tố vi lượng thiết yếu. I-ốt cần
cho sự tổng hợp hóc môn tuyến giáp gọi là thyroxin, là một chất có tác dụng
thúc đẩy sự làm việc của mọi tế bào.
Hóc môn giáp đóng vai trò đảm bảo cho nhiều hoạt động quan
trọng của cơ thể như đảm bảo quá trình chuyển hóa tạo ra năng lượng, duy trì
thân nhiệt; phát triển xương, não bộ và hệ thần kinh trong thời kỳ bào thai và
vài năm đầu sau sinh…
I-ốt hiện diện trong đất đai, nguồn nước, không khí, cây
cối, động vật, tuy nhiên hàm lượng này rất thấp, nhất là ở vùng xa biển. Hàm
lượng I-ốt trong nước biển khoảng 50-60mcg/L (mi cro gram = 1 phần triệu của
gram), trong không khí 0,7 mcg/m3, trong nước mưa 5mcg/ mỗi lít. Nếu lượng I-ốt
có trong không khí, nguồn nước và thức ăn ở một vùng là thấp thì người dân vùng
này dễ bị bướu cổ, nhiều trẻ em đần độn, lác mắt, chậm lớn (lùn).
Nhiều người trước đây cho rằng việc thiếu I-ốt sẽ gây nên
bướu cổ, điều này chỉ đúng một phần. Khái niệm “Các rối loạn do thiếu I-ốt” do
B. Hetzet đưa ra năm 1983 nói lên hậu quả của việc thiếu I-ốt không chỉ gây
bướu cổ, mà còn gây nhiều hậu quả khác và có thể tóm tắt vào 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ bào thai: sảy thai, tăng tử vong chu sinh, khuyết
tật bẩm sinh, đần độn thể thần kinh (thiểu năng trí tuệ, điếc, câm, liệt cứng 2
chi dưới), đần độn thể phù niêm (thiểu năng trí tuệ, lùn).
Thời kỳ sơ sinh: bướu cổ sơ sinh, thiểu năng tuyến giáp.
Thời kỳ trẻ em và thiếu niên: bướu cổ, thiểu năng tuyến
giáp, cơ thể chậm phát triển.
Thời kỳ người lớn: bướu cổ và biến chứng, thiểu năng tuyến
giáp, trí tuệ kém phát triển, sức lao
động kém.
Như vậy, thiếu I-ốt sẽ trầm trọng hơn nếu thiếu trong giai
đoạn bào thai và 3 năm đầu đời vì làm tế bào thần kinh giảm phát triển về số
lượng và chất lượng, đưa đến đần độn, chậm phát triển về trí tuệ, lùn.
Trước đây người ta cho rằng bệnh thiếu I-ốt xảy ra chủ yếu ở
miền rừng núi do thiếu các sản phẩm thực phẩm từ biển và muối. Tuy nhiên, số
liệu điều tra của Bệnh viện Nội tiết Trung ương trong những năm qua cho thấy tỷ
lệ hộ dân có bọc muối I-ốt trong gian bếp thấp, mức I-ốt trong nước tiểu cũng
thấp (chứng tỏ lượng I-ốt được hấp thu hàng ngày là không đủ. Trong khi tỷ lệ
hộ dân sử dụng muối I-ốt hàng ngày cần đạt là từ 90%.
Các thức ăn từ biển có nồng độ I-ốt cao hơn hẳn các thực
phẩm khác
Thực phẩm
|
Tươi sống
|
Khô
|
Cá biển
|
832
|
3.715
|
Cua, sò
|
798
|
3.866
|
Thịt
|
50
|
/
|
Gạo
|
47
|
65
|
Cá nước ngọt
|
30
|
116
|
Rau
|
29
|
385
|
Bảng: Nồng
độ I-ốt trung bình trong một số thực phẩm (mcg/kg).
Mỗi ngày chúng ta cần khoảng 150mcg I-ốt (mcg (mi crô gram)
= 1/triệu gram); trẻ em cần dùng ít hơn trong khi phụ nữ có thai hoặc đang cho
con bú thì cần nhiều hơn (khoảng 200mcg). Số lượng này bằng khoảng 5-8g muối đã
trộn sẵn. Số lượng 5-8g muối bằng với tổng lượng muối hàng ngày mà mỗi người ăn
vào (mỗi người lớn chỉ nên dùng dưới 6g hàng ngày để tránh tim làm việc quá sức
và bệnh tăng huyết áp), nếu chúng ta chỉ dùng muối I-ốt thì số lượng này là đủ.
Tuy nhiên, theo điều tra thì mức I-ốt thu nhận được hàng ngày của người dân
thành phố Cần Thơ vẫn chưa đạt để phòng các rối loạn do thiếu hụt I-ốt, đó là
do:
+ Không nêm tất cả
món ăn bằng muối I-ốt, mà thường nêm thức ăn chủ yếu bằng muối thường do cho
rằng muối I-ốt mặn hơn hay có vị không ngon.
+ Tập quán phổ biến
dùng nước mắm, nước tương, bột nêm… trong bữa ăn hàng ngày mà những gia vị này có
thể không bổ sung I-ốt.
+ Tập quán muối dưa,
muối cá, làm chao, các loại mắm…: đều không sử dụng muối I-ốt.
+ Bảo quản muối I ốt không đúng cách: I-ốt sẽ bốc hơi dần
theo thời gian trong muối trong quá trình bảo quản, vận chuyển; để lọ muối I-ốt
gần bếp lửa và mở nắp cũng làm I-ốt mất đi mau chóng, hoặc lọ muối bị nhiễm
nước làm I-ốt tan lắng xuống đáy lọ.
Ngoài những lý do trên, phụ nữ thường thiếu I-ốt là do nhiều
người trong số họ không thích ăn cá biển, ít dùng rong biển; một số rau họ cải
cũng làm cản trở sự hấp thu I-ốt khi ăn sống.
Để phòng các rối loạn do thiếu hụt I-ốt dễ dàng nhất là sử
dụng muối I-ốt hàng ngày trong khi chế biến hầu hết các loại thức ăn. Muối I-ốt
giá rẻ, giá gần bằng muối thường và vì hàng ngày ta chỉ dùng một lượng không
nhiều, số tiền thêm lên quá nhỏ bé so với hiệu quả phòng bệnh của nó. Hàm lượng
pha I-ốt tại nơi sản xuất là 40ppm (phần triệu) nhưng trong quá trình lưu
thông, I-ốt sẽ mất đi và thực tế chỉ còn khoảng 20ppm (tương đương 200mcg/10g
muối) khi đến tay các bà nội trợ. Lượng I-ốt này vừa đủ cho nhu cầu mỗi người
nếu ta chỉ nêm thức ăn bằng muối I-ốt; lượng I-ốt trong nước, thức ăn khác
thường rất ít, nếu có dư sẽ được đào thải qua nước tiểu.
Khi bảo quản lọ muối I-ốt nên đậy nắp kín, tránh ẩm ướt và
để xa hơi nóng của bếp lửa hoặc ánh sáng mặt trời. Muối I-ốt không nên rang lên
vì sẽ làm mất I-ốt.
Ngoài sử dụng muối I-ốt, các bà nội trợ cũng nên tăng cường
các thức ăn từ biển trong bữa cơm hàng ngày như cá biển, rong biển; đặc biệt
rong biển có hàm lượng I-ốt rất cao. Khi sử dụng các rau họ cải thì nên nấu
chín để các chất Thioglucoside là các chất kháng I-ốt sẽ bị tiêu hủy đi khi gặp
nhiệt độ cao.
Bài: BS. Dương Phước Long - Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố Cần Thơ