Rắn có nhiều loài, một số loài thường dùng làm thuốc: Rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn cạp nia, và rắn ráo.
Rắn có loại sống trên đất liền nhưng xuống nước được và Rắn biển. Rắn có loại không độc và rắn độc. Dân gian thường nói “Mái gầm nằm tại chỗ, rắn hỗ về nhà” Rắn Mái gầm có khoang đen, vàng hoặc trắng rất độc, Rắn hỗ thường phùng bàn nạo, cổ có khoan. Rắn hổ thấy dữ nhưng cắn khó trúng vì mổ xuống nhưng có răng nọc độc, nọc độc bản chất Protein nên dể hủy bằng Tanin (chất chát) trong cây cỏ vì vậy người ta khuyên nên nhai cây cỏ đấp lên vết cắn để nọc còn ngoài bị hủy chưa kịp vào trong, acid và baz đều hủy nọc được nên cắt quả chanh chà lên vết cắn, xoa thuốc tím… (Cấp cứu Rắn cắn có bài riêng); rắn Ri voi, Ri cá không độc nhưng táp cái là trúng liền, không có răng nọc độc, thịt có nhiều đạm quí…
1. Rắn hổ mang Naja naja L. họ Rắn hổ Elapidae
2. Rắn cạp nong = Rắn mai gầm Bungarus fascianus Schneider. họ Rắn hổ Elapidae.
3. Rắn cạp nia = Rắn mái gâm bạc, khoanh đen trắng, bạch hoa xà Bungarus candudus L. họ Rắn hổ Elapidae.
4. Rắn ráo =hổ chuối = hoàng tiêu xà Ptyas korros Schlegel thuộc họ Rắn nước Colubridae. Thân dài đến 2m, màu nâu xám hay lục xám, bụng nhạt hơn hoặc có màu trắng ngà. Rắn không có nọc độc.
Bộ phận dùng của Rắn và tác dụng:-Thịt rắn: chứa protid, nhiều acid amin, trong đó có loại cần thiết cho cơ thể như Leucin, lysine, arginin, valin…
Theo Đông Y: Thịt rắn có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính ấm vào kinh can, có tác dụng giảm đau, trừ thấp, tiêu độc. Chữa bệnh thần kinh đau nhức, bán than bất toại, khớp xương sưng đau, chân tay nhức mỏi, nhọt độc…
- Mật rắn (Xà đởm): chứa cholesterin, các acid palmetic, stearic, cholic… Theo Đông Y: Mật rắn có vị đắng, cay, tính hàn, có thể giảm đau, giảm ho, chống viêm, làm hạ hỏa và tiêu đờm do nhiệt gây ra. Mật rắn cũng giúp tan máu bầm nên được ngâm rượu để chữa chứng nhức xương, phong thấp. Dùng 1-2 túi mật ngày.
-Xác rắn lột (xà thoái): có oxyd titan và oxyd kẻm
Theo Đông Y: có vị ngọt, mặn, hơi tanh, tính bình vào kinh can, có tác dung sát khuẩn, chống viêm, giải độc.
Xác rắn lột cho vào ống trúc đốt lấy khói xông Viêm họng. Xác rắn lột tán bột tẩm rượu đấp nhọt khi chưa có mủ. Xác rắn lột đốt tồn tính trộn mỡ trăn, phèn phi chữa các vết thương nhiểm trùng.
-Nọc rắn chứa chất độc thuộc loại Zootoxin, protein, albumin, chất kẻm có hàm lượng cao, Ca, Mg, enzyme. Cobratoxin là chất độc trong nọc rắn hổ mang.
Nọc rắn được dùng trong Y học hiện đại chữa thấp khớp, viêm cơ, viêm dây thần kinh dưới dang bôi ngoài như Najatox (nọc rắn hổ mang. Salicylat metyl, tinh dầu khuynh diệp, camphor và vaselin). Không bôi chổ trầy sướt.
Theo Đông Y: Nọc rắn có tác dụng giảm đau, chống viêm.
-Huyết rắn: có tác dụng làm tăng sinh lực, bổ thận. Máu rắn còn được dùng chung với mật rắn để tạo thành “Huyết xà đởm”.
- Rượu rắn được xem là một loại thuốc bổ dưỡng. Rượu ngâm với rắn khô hoặc tươi đều được nhưng nên ngâm riêng với thuốc, nếu ngâm chung thuốc quí với thuốc thường, thuốc quí dính qua xác thuốc thường làm hao thuốc quí.
Các loại rượu rắn: Tam xà tinh ngâm 3 loại rắn hổ mang, cạp nong và hổ lửa; ngũ xà tinh thêm hổ trâu và hổ hành; lục vị xà tửu gồm rắn ngâm với 6 vị thuốc; bát vị xà tửu ngâm với 8 vị thuốc.
(thục địa, sơn thù, hoài sơn, bạch phục linh, trạch tả, đơn bì (lục vị) bổ thận âm, them nhục quế, phụ tử chế (bát vị) bổ thận dương.
Các vị thuốc thường phối hợp để ngâm Rượu rắn là:–Tiên linh tỳ –Tiên mao –Ba kích –Nhục thung dung –Đổ trọng –Thỏ ty tử – Sơn thù – Hoài sơn– Phá cố chỉ– Phúc bồn tử –Bạch tật lê – Thục địa – Kỷ tử– Qui đầu–Hà thủ ô đỏ _Hoàng kỳ –Tam thất – Đơn sâm – Huyền hồ – Ngưu tất=Thổ phục linh – Đại táo.
XÀ SÀNG TỬ 蛇 床 子 Tên khác: hạt giần sàng (Trông từ trên xuống, hoa của cây này trông tựa cái giần, cái sàng. Có nơi gọi cây xà sàng vì rắn hay nằm dưới cây này.).
Tên khoa học: Cnidlum monnleri (L) Cuss Umbelliferae.
Đặc điểm thực vật: là loại thân cỏ cao 0,4-1 m, mọc đứng, phân nhánh. Lá mọc so le, xẻ lông chim hai lần. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán kép, cuống hoa dài hơn cuống lá. Cụm hoa nhìn từ trên xuống giống như cái giần hay cái sàng, nên cây còn có tên là “giần sàng”. Quả hình bầu dục hơi dẹt. Vì quả rất nhỏ, chỉ dài khoảng 2-5 mm nên dân gian thường gọi là “hạt”. Để sử dụng làm thuốc, khi quả chín (tháng 6-8), người ta nhổ hay cắt cả cây về, phơi khô, đập lấy quả, loại bỏ tạp chất, phơi cho thật khô là được.
Bộ phận dùng: quả và hạt. Hạt chắc, mùi hắc là tốt, lép là xấu.
Fructus Cnidii.
Hoạt chất: có tinh dầu 1,3%, Oston, chất dầu 92,6%.
Tác dụng dược lý: Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, xà sàng tử có tác dụng tương tự như testosteron, làm tăng trọng lượng tử cung và buồng trứng ở động vật thí nghiệm.
Ngoài ra, vị thuốc này còn giúp chống rối loạn nhịp tim, điều hòa huyết áp; chống hen, trừ đờm, tăng cường chức năng miễn dịch, chống dị ứng, giảm đau, gây tê cục bộ, cải thiện chức năng não, tăng trí nhớ, chống loãng xương...
Tính vị, quy kinh, tác dụng(công năng): vị cay, đắng, tính ôn.Vào kinh Thận và Tam tiêu, cường dương, bổ Thận, trừ phong, táo thấp, sát trùng.
-Trong Lĩnh nam bản thảo, Lãn Ông viết:
«Xà sàng lấy hột để sao qua
Tính nó ấm, cay, chẳng độc mà
Thận thấp, âm nuy, tiêu ghẻ lở
Khu phong, trục ứ giúp muôn nhà”.
-Tuệ Tĩnh từng viết:
“Cường dương chừ xà sàng, ông già uống khá đương mười cô gái”.Chủ trị: trừ phong, ráo thấp, sát khuẩn hết ngứa, ấm thận trừ phong thấp tý, ghẻ lở loét, phụ nữ khí hư, vùng âm hộ ngứa, sưng đau, tử cung giá lạnh vô sinh, nam giới liệt dương, uống lâu mạnh chân âm sẽ sinh con; làm nhẹ mình, đẹp nhan sắc; trừ khí tắc lợi các khớp, chữa động kinh...
Cách dùng, liều lượng, bài thuốc: Ngày dùng 4 - 12g. Dùng sống: nấu lấy nước để tắm rửa. Dùng chín: tẩm muối sao qua (nở đều là được).
- Thận dương suy biểu hiện như bất lực và vô sinh: Dùng Xà xàng tử với Ngũ vị tử và Thỏ ti tử.
- Nhiễm Trichomonas âm đạo: Nước sắc Xà xàng tử dùng như là thuốc rửa.
- Chữa nam giới âm nang thấp ngứa: Xà sàng tử 16g, ba kích 12g, viễn chí 10g, ngưu tất 12g, hà thủ ô 12g, dương khởi thạch 10g. Nước 600ml, sắc còn 200ml uống 2 lần trong ngày giữa 2 bữa ăn.
- Trị âm hộ sưng đau: Xà sàng tử 12g, ba kích 10g, ngưu tất 10g, đỗ trọng 12g, tục đoạn 10g, địa hoàng 10g, hoàng bá 10g. Nước vừa đủ sắc còn một nửa, uống 2 lần trong ngày.
- Trị khí hư bạch đới: Xà sàng tử 12g, hoàng bá 10g, sơn thù nhục 10g, ngũ vị tử 8g, phục linh 12g, xa tiền tử 10g, hương phụ chế 10g, tục đoạn 10g, bồ cốt khí 8g. Nếu khí hư ra đỏ thì thêm bạch giao 10g, a giao 10g cắt vụn cho vào thuốc đã sắc xong hòa tan mà uống. Cách sắc như bài trên.
- Trị liệt dương: Xà sàng tử 200g, ngũ vị tử 100g, thỏ ty tử 100g, tất cả nghiền nhỏ hòa mật, quết nhuyễn làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 lần mỗi lần 30 viên với rượu ấm; không uống được rượu thì pha rượu vào nước nóng mà uống để dẫn thuốc nhanh.
Kỵ: Thận hoả, dương vật dễ cương không nên dùng. Phần nhiều làm thuốc dùng ngoài. Ho suyễn do ngoại tà phong hàn, người có thực nhiệt cấm dùng.